Cây khế có lá kép dài đến 50 cm. Hoa khế màu tím, xuất hiện hoặc tại nách lá, hoặc tại đầu cành. Cây khế có nhiều cành, cao đến khoảng 5 m. Khác với nhiều cây nhiệt đới khác, cây khế không cần nhiều nắng. Màu vàng hoặc xanh, có 5 múi (cho nên lát cắt ngang của quả có hình ngôi sao). Quả khế giòn, có vị chua ngọt, hao hao giống vị của quả lê dứa. Các hạt nhỏ, màu nâu. Có hai giống là khế chua và khế ngọt. Khế chua thường có múi nhỏ, còn khế ngọt thường có múi to và mọng hơn. Quả khi còn non có màu xanh, khi chín ngả sang màu vàng.
Quả khế được ăn để cầm máu và giảm trĩ, nước ép dùng làm thuốc hạ sốt. Ở Brasil, người ta dùng khế làm thuốc lợi tiểu trong trường hợp tiểu ít. Nước sắc cành lá mang quả trị lở ngứa do sơn ăn (nếu để nhựa mủ của cây sơn – Rhus verniciflua dính da sẽ gây lở loét da). Hột khế giã nát sắc uống có tính lợi sữa, điều kinh, giải độc. Bột hột khế khô có tính an thần nhẹ.
Cách trồng chăm sóc cây khế
Cây khế thuộc loại cây thân gỗ khỏe mạnh, dễ trồng và chăm sóc, tốc độ phát triển trung bình.
Cây khế chịu được nhiệt độ cao, chịu nóng nhưng cũng chịu được rét, nhiệt độ thấp kể cả rét đậm.Nhiệt độ khoảng 22-26oC thì quả ngon đẹp.
Khế ưa nắng trồng nơi thoáng gió, rộng rãi, tuy nhiên cây cũng chịu được một phần bóng râm.
Đất trồng khế cần loại đất ẩm, nhiều mùn và nhiều dinh dưỡng, tơi xốp, thoát nước tốt vì khế dễ bị thối và ngập úng. Độ pH thích hợp là 5,5-6,5.
Lượng nước tưới cho khế vừa phải, chỉ cần chú ý khi cây trong giai đoạn từ cây con đến khi trưởng thành. Giai đoạn nuôi quả từ tháng 6 đến cuối năm thì tăng cường tưới, thời tiết khô hạn sẽ làm quả bị rụng nhiều.
Bón phân cho cây khế cũng không cầu kỳ, tuy nhiên trong giai đoạn nuôi quả, nên bón tro bếp và vôi bột để cải thiện chất lượng quả, không nên bón đạm.
Nên trồng khế vào mùa xuân hoặc thu, nên cắt tỉa cây trong giai đoạn trưởng thành để cây đều tán, không nên cho nắng rọi vào thân cây. Cắt tỉa cành cây sâu bệnh, cành già, yếu để tăng cường dinh dưỡng nuôi cây, nên cắt tỉa cành trước lúc ra hoa hoặc sau khi thu hoạch quả.